Gần nửa thế kỷ đã qua kể từ khi Bác về cõi vĩnh hằng nhưng tính hiện đại, hơi thở thời cuộc trong phong cách báo chí cũng như phong cách ngôn ngữ báo chí của Hồ Chí Minh vẫn vẹn nguyên giá trị.
Bác từng căn dặn các nhà báo: “Chúng ta muốn tuyên truyền quần chúng phải học cách nói của quần chúng mới lọt tai quần chúng”, “Nhân dân ta có truyền thống kể chuyện ngắn gọn mà lại có duyên, các chú phải học cách kể chuyện của nhân dân”. Tư tưởng nói và viết phải phù hợp với đối tượng luôn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt sự nghiệp báo chí cách mạng của Người. Chính vì thế, sử dụng ngôn ngữ như thế nào để đạt hiệu quả tối ưu luôn là vấn đề được Người đặc biệt quan tâm.
Khảo sát các bài báo viết bằng tiếng Việt của Bác từ 1945-1969, đăng trên các báo Sự Thật (ST), Cứu Quốc (CQ), Nhân Dân (ND), ta dễ dàng nhận thấy các thủ pháp nhằm tăng cường tính biểu cảm trong ngôn ngữ báo chí mà lí luận ngôn ngữ báo chí hiện đại đề cập đến đều đã được Người vận dụng đến độ tự nhiên, nhuần nhuyễn, hài hòa. Sử dụng nhuần nhuyễn khẩu ngữ, từ ngữ hội thoại
“Hội thoại hóa” ngôn ngữ báo chí là xu hướng được cổ xúy của báo chí hiện đại. Những từ ngữ vốn là lời nói miệng, chỉ dùng trong sinh hoạt hàng ngày, bao gồm cả tiếng lóng và một số từ ngữ thông tục được dụng công sử dụng trong tác phẩm báo chí nhằm làm cho báo chí ngày càng gần gũi hơn với đời sống.
Trong các bài báo của Bác, đặc biệt là trong tít báo, khá nhiều yếu tố khẩu ngữ được sử dụng đạt hiệu quả biểu cảm cao. Những từ ngữ thông tục được Bác dùng trong các tiêu đề bài viết vạch trần bản chất quân xâm lược: Bọn Diệm láo toét (ND, 10.10.1955), Đế quốc Mỹ rúc xuống hầm (ND, số 3770, 26.7.1964), Quân Mỹ chết nhăn răng, tướng Mỹ nhăn răng cười (ND, số 4292, 4.1.1966), (Đại) bại tướng vét mỡ lợn đã cút về nước mẹ Hoa Kỳ (ND, số 5175, 13.6.1968)…
Các thán từ, từ ngữ mang tính bình giá trực tiếp được Bác sử dụng khi muốn công khai thái độ, bày tỏ cảm xúc trực diện trước các tình huống, sự kiện trong đời sống như: Ô hô! Tinh thần Mỹ (ST, 12.1.1952), Quốc hội ta vĩ đại thật (ND, 10.7.1960)… Ngoài ra, không ít lần bác sử dụng các từ tượng thanh mang tính khẩu ngữ trong tít báo: Uỵch (ND, số 41, 17.1.1952), Ầm (ND, 06.12.1955) mô tả sinh động sự sụp đổ thảm hại của Chính phủ Pháp, Đốp! Đốp! (được dùng 3 lần trong 3 bài khác nhau trên các báo: Cứu Quốc, số 1875, 3.8.1951, ND, 18.12.1953, ND, 1.2.1963) nhằm mô tả tiếng vả miệng khi Bác dùng lý lẽ để “giáng một cái tát” vào luận điệu xuyên tạc, mị dân của lũ bù nhìn tay sai và thực dân Pháp xâm lược. Yếu tố khẩu ngữ được sử dụng hiệu quả đã rút ngắn khoảng cách giữa người viết (một lãnh tụ) với quần chúng nhân dân, khơi gợi trí tò mò, tạo sự phấn chấn tinh thần cho người đọc nhờ nụ cười dí dỏm, con mắt trào lộng sâu sắc của người viết… Sử dụng cẩn trọng từ ngữ vay mượn từ tiếng nước ngoài
Bác luôn phê phán hiện tượng báo chí ta quá lạm dụng tiếng nước ngoài. Bác chủ trương chỉ sử dụng từ ngữ vay mượn tiếng Anh, tiếng Pháp, từ Hán Việt khi tiếng Việt mình không có từ đúng hơn, hay hơn để thay thế, và Người luôn là tấm gương sáng trong việc sử dụng ngôn ngữ thuần Việt. Chính vì thế, khi các yếu tố nước ngoài được sử dụng trong tác phẩm báo chí của Bác thì từ ngữ đó luôn mang hàm ý nghệ thuật và ý nghĩa chính trị rõ ràng, có giá trị biểu đạt đặc biệt. Trong bài Thiếu óc tổ chức - một khuyết điểm lớn trong các Ủy ban nhân dân đăng trên báo Cứu Quốc, số 58, ngày 4.10.1945, bác viết: Cán bộ chăm chỉ làm việc chưa đủ, cần phải biết làm việc cho có phương pháp. Phải cần mà phải cẩn nữa. Hai từ Hán Việt “cần” và “cẩn” được Bác sử dụng theo lối gần gũi về âm, vừa gọi tên được chính xác đối tượng, vừa tạo cảm giác thú vị, dễ nhớ cho người đọc. Để đả kích vua Bảo Đại, Bác có bài: Chữ đại thêm một chấm (ND, 21.6.1954), với hàm ý, chữ đại trong tiếng Hán thêm một chấm thành chữ khuyển - Bảo Đại chẳng qua chính là chó săn của thực dân Pháp. Đúng là nụ cười thâm thúy của một nhà nho yêu nước! Hay trong bài Taylo rồi chân cũng lo! (ND, số 3764, 20.7.1964), sau khi lên án đế quốc Mỹ vì phá vỡ hiệp định Geneve, Bác viết: Nghe nói Taylo biết nhiều tiếng nước ngoài và sẽ học tiếng Việt Nam. O.K. Như thế, ông ta sẽ hiểu rõ và thấm thía khi nghe ND Việt Nam hô to “đế quốc Mỹ cút đi!”. Còn trong bài Mỹ hoạt động hòa bình giả để mở rộng chiến tranh thật (ND, số 4296, 8.1.1996), sau khi vạch trần bộ mặt “yêu chuộng hòa bình” giả tạo của Mỹ và Johnson, Bác (với bút danh Chiến Sĩ) đã đe doạ: Đế quốc Mỹ xâm lược Nam Việt Nam và “leo thang” miền Bắc. Chúng tự động cút khỏi VN một cách có thể diện, thì hòa bình trở lại ngay, cần gì phải đi tìm. Nếu chúng chần chừ không tự động cút đi thì ND cả nước ta đoàn kết một lòng, kiên quyết chiến đấu, nhất định sẽ tống cổ chúng đi. Do you understand, Zoon? Dùng ngôn ngữ của kẻ thù để đả kích kẻ thù, vạch mặt kẻ thù, đe dọa kẻ thù, từ “O.K” (Được thôi), hay câu hỏi “Do you understand, Zoon? (Có hiểu không, Zôn?) Người dùng mới thật dứt khoát, hào hứng, tự tin, tỏ rõ tâm thế của người viết cũng như làm lan truyền mạnh mẽ tâm thế quyết chiến ấy đến toàn dân tộc. Sáng tạo và sử dụng hiệu quả thuật ngữ
Thuật ngữ - bản thân chúng là những từ ngữ trung tính, không mang sắc thái biểu cảm. Tuy nhiên, trong các bài báo của Bác, nhiều thuật ngữ lần đầu tiên xuất hiện, được chính Người sáng tạo nên do nhu cầu gọi tên những hiện tượng, sự vật trong đời sống nhằm phục vụ cho mục đích tuyên truyền, cho sự nghiệp cách mạng. Chính vì vậy mà bên cạnh tính định danh đối tượng, nhiều thuật ngữ thể hiện tính biểu cảm cao, gần gũi với quần chúng, được quần chúng đón nhận và sử dụng như lời ăn tiếng nói hàng ngày. Từ các bài báo của Bác, chúng ta có các từ ngữ mà Chánh mật thám Pháp - Louis Marty gọi là “ngữ vựng cộng sản mới” được định nghĩa rõ ràng và chính xác: dân vận, phê bình và tự phê bình, giặc đói, giặc dốt, tết trồng cây, trồng người, quỹ đen, quỹ trắng, bệnh máy móc, bệnh quan liêu… Thậm chí với những thuật ngữ tưởng như quá quen thuộc với chúng ta, nhưng như nhà báo Thép Mới nhận định, chính “Bác là người đầu tiên nhào nặn ngôn ngữ Việt Nam hiện đại mà chúng ta ngày nay vận dụng”, “những từ ngữ như vật chất, tinh thần, tuyên truyền, tổ chức, phản cách mệnh, hoạt đầu, bãi công, bạo động, dân chủ, tập trung, đảng, chi bộ, tổ trưởng, đồng chí, tổ chức ngang, tổ chức dọc, kinh tế, hợp tác xã mua bán, tiền vốn, lưu thông, tín dụng, tư bản… đều đã vận dụng trong sách Đường kách mệnh và báo Thanh Niên” [2, 95]. Với ngôn ngữ tiếng Việt của dân tộc, Người có công lao vô cùng to lớn trong việc khai phá, vun đắp, giữ gìn là vậy! Sử dụng hiệu quả phương ngữ Để vấn đề tuyên truyền gần gũi với nhân dân, Bác đã sử dụng trong các bài viết của mình nhiều phương ngữ.
Trong bài Dinh tê (ND số 46, 21.2.1952), Bác dùng từ dinh tê để chỉ những người “kém lòng tin tưởng vào lực lượng tất thắng của dân tộc”, “kém lòng tin tưởng vào sức chịu đựng của mình”. Dinh tê vốn bắt nguồn từ hai chữ “renter,” - trở vào, một thứ tiếng lóng thời đại, dùng để chỉ sự từ bỏ vùng kháng chiến để trở vào vùng thành phố tạm bị chiếm. Cắt nghĩa dinh tê bằng quan điểm của người làm cách mạng, Bác đã chỉ rõ nguyên nhân, tình trạng hiện tại và tương lai của những người dinh tê để thức tỉnh họ, khuyên họ theo kháng chiến, tin tưởng vào sự tất thắng của cách mạng. Trong bài Lễ cưới (Bút danh Chiến Sĩ) sau khi kể câu chuyện về một lễ cưới lãng phí ở Phú Thọ, Bác đặt một câu hỏi bằng câu thơ lục bát: “Cô cán bộ, cậu sinh viên/ Xa hoa lãng phí, không phiền lòng ru?”. Ru chính là phương ngữ của một số địa phương đồng bằng Bắc Bộ. Nếu hỏi “không phiền lòng ư?”, “không phiền lòng sao?”, “không phiền lòng chăng?”… thì câu thơ đã mất hẳn sự phê phán nhẹ nhàng, tế nhị và xen một nụ cười hóm hỉnh của Bác, đồng thời, nhờ có từ để hỏi ru mà người dân vùng đồng bằng Bắc Bộ hẳn sẽ rất thích thú, sẽ nhớ, sẽ thuộc ngay câu thơ của Bác để mà tuyên truyền cho nhau về việc cần thực hành tiết kiệm, chống lãng phí khi tổ chức cưới xin trong hoàn cảnh kháng chiến. Vận dụng khéo léo yếu tố văn học Trong các bài báo của mình, Bác không chỉ sử dụng hiệu quả chất liệu văn học, đặc biệt là văn học dân gian mà còn sáng tác văn học để phục vụ mục đích tuyên truyền. Những câu thành ngữ, tục ngữ, câu thơ, câu ca dao hiện đại được Bác biến tấu và vận dụng hết sức linh hoạt, sáng tạo xen lẫn trong các bài báo đã nhanh chóng bám rễ trong tâm trí quần chúng nhân dân và được lưu truyền mãi. Về việc sử dụng chất liệu văn học, do sự chi phối sâu sắc của tư tưởng tuyên truyền phải phù hợp với đối tượng nên chất liệu văn học Bác sử dụng trong báo chí giai đoạn 1945-1969 chủ yếu là văn học dân gian, vốn quen thuộc với đông đảo quần chúng nhân dân. Những câu thành ngữ, tục ngữ, câu đối, câu vè… dân gian không chỉ được dùng nguyên dạng mà thường được Bác sáng tạo lại, thêm, bớt, thay thế từ ngữ, hoặc đổi trật tự để có được diện mạo mới, tạo sự thú vị bất ngờ và hiệu quả tuyên truyền, đả kích mạnh mẽ. Vấn đề này đã có một số nhà nghiên cứu bàn đến. Ở đây, chúng tôi chỉ xin tập trung vào khía cạnh: Bác đưa yếu tố văn học vào tác phẩm báo chí như thế nào. Bác thường xen những câu thơ ngắn, có vần có điệu vào bài viết của mình, mục đích là để người đọc dễ hiểu, dễ nhớ và dễ làm theo. Có thể nói, đây chính là chất thơ trong ngôn ngữ báo chí của Bác. Có những bài viết, người dùng đến 3-4 câu thơ, câu nào cũng được dẫn dắt vừa ngắn gọn, mạch lạc, lại hợp lý hợp tình, vì thế mà biểu cảm. Chẳng hạn trong bài Lễ cưới, Bác kể hai câu chuyện đọc được trên báo. Câu chuyện thứ nhất về đôi thanh niên Hảo - Thắng tạm hoãn đám cưới để tham gia kháng chiến. Bác ngợi khen: Thật là: Việc công trước, việc tư sau/ Chữ duyên càng đượm, càng sâu chữ tình. Câu chuyện thứ hai kể về đám cưới dềnh dang tốn kém của chị Th. và anh B. Bác trách bằng hai câu thơ: Xin hỏi: Cô cán bộ, cậu sinh viên/ Xa hoa lãng phí, không phiền lòng ru?. Kể xong hai câu chuyện, Bác không quên khẳng định rằng trường hợp cô Th. và anh B. chỉ là rất ít, còn tác phong đúng đắn như hai đồng chí Thắng và Hảo là tuyệt đại đa số trong thanh niên ta. Và Người kết luận: Một lòng bảo vệ nước nhà/ Thanh niên như thế mới là thanh niên. Trong bài Tự phê bình, ND số 9, 20.3.1951, Bác vào đề: Dao có mài, mới sắc/ Vàng có thui, mới trong/ Nước có lọc, mới sạch/ Người có tự phê bình, mới tiến bộ. Đảng cũng thế…
Còn trong bài Sau lũy tre xanh (ND, số 40, 10.01.1952), Bác (bút danh C.B.), sau khi lược thuật một bài viết mang tên Sau lũy tre xanh trên báo Người Xem Xét (Observateur) về việc Pháp ngày càng thất thế so với sự lớn mạnh của Việt Minh, C.B. kết luận: Sau lũy tre xanh/ Trước lũy tre xanh/ Ta đánh cho Pháp tan tành tả tơi. Có thể kể tên rất nhiều bài báo được Bác trang điểm bằng những câu thơ, hay nói đúng hơn là những câu ca dao hiện đại, ví dụ: Thư gửi binh sĩ thuộc chính quyền miền Nam (ND, số 3578, 14.1.1964): Trên vì nước, dưới vì nhà/ Một là đắc hiếu, hai là đắc trung; Trong trần ai, ai cũng ghét ai (ND, số 2498, 20.1.1961): Chẻ hết tre rừng cao, ghi không hết tội/ Múc hết nước biển cả, rửa không sạch thù; Đế quốc Mỹ rúc xuống hầm (ND, số 3770, 26.7.1964): Lại thêm chứng cớ rõ ràng/ Đồng bào miền Nam càng đánh càng mạnh và càng thắng to v.v… Ý tứ rõ ràng, ngôn từ giản dị, văn phong tươi sáng, các bài báo của Bác nhờ các câu thơ đậm chất tuyên truyền như thế mà vừa đại chúng vừa mang một phong cách riêng không hề trộn lẫn. Sử dụng linh hoạt và hữu hiệu hình thức chơi chữ Điểm đặc sắc nhất trong văn phong nói chung và phong cách ngôn ngữ báo chí nói riêng của Bác có lẽ là cái nhìn trào lộng, nụ cười hóm hỉnh mà thâm thúy được dùng rất đúng lúc, đúng chỗ và đầy ý nghĩa. Điều này dường như ngày càng vắng bóng trong báo chí hiện đại của chúng ta hiện nay. Để có được phong cách này, hình thức Bác sử dụng hữu hiệu nhất chính là chơi chữ.
Hình thức này được Bác dùng rất nhiều ở đầu đề các bài báo, tạo hiệu quả biểu cảm cao, kích thích trí tò mò và thỏa mãn tâm lý quần chúng nhân dân bởi sự gần gũi, hóm hỉnh của người viết và sức mạnh tuyên truyền, tố cáo của nội dung bài viết. Có khi, đó là hình thức chơi chữ gần âm: Quốc hội tạm thời hay quốc hội làm thối (ND, 16.12.1954). Có khi là chơi chữ vừa gần âm, vừa kết hợp yếu tố nói lái của dân gian: Hòa bình kiểu Mỹ tức là binh họa (ND, 29.6.1963), Đại bợm Giôn-xơn miệng nói hòa bình, tay vung binh hỏa (ND, số 4029, 14.4.1965). Có khi là hình thức chơi chữ đồng âm - đây là hình thức được Bác ưa dùng nhất: Trong trần ai, ai cũng ghét ai (ND, số 2498, 20.1.1961). Từ ai thứ ba dùng để ám chỉ Aixenhao (Eisenhower); Taylo rồi chân cũng lo! (ND, số 3746, 20.7.1964), Mỹ mà phong không thuần, tục không mỹ (ND, số 2031, 28.10.1959)… Còn rất nhiều thủ pháp nữa được sử dụng trong các bài báo của Bác nhằm tăng cường tính biểu cảm cho ngôn ngữ như: Việc sử dụng số liệu và các con số, việc sử dụng dấu câu, hình thức câu hỏi, việc dẫn tài liệu phục vụ nội dung bài viết, việc dùng ẩn dụ… Tuy nhiên, trong khuôn khổ bài viết chúng tôi chỉ tìm hiểu những thủ pháp tiêu biểu nhất làm nên phong cách ngôn ngữ báo chí Hồ Chí Minh - một phong cách báo chí độc đáo, mới mẻ và hiện đại vẫn còn nguyên giá trị cho đến hôm nay. ---------- Tư liệu tham khảo: 1. Hoàng Anh, Một số vấn đề về sử dụng ngôn từ trên báo chí, NXB LĐ, H, 2003 2. Hà Minh Đức, Cơ sở lí luận báo chí - Đặc tính chung và phong cách, NXB ĐH Quốc gia, H, 2000. 3. Nguyễn Sông Lam, Bình Minh (tuyển chọn), 120 bài báo của chủ tịch Hồ Chí Minh, NXB Thanh Niên, H, 2010 4. Hồ Chí Minh tuyển tập, Tập 2, tập 3, NXB Chính trị quốc gia, H, 2002. 5. Bùi Khắc Việt, Phong cách ngôn ngữ trong tên các bài báo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tạp chí Ngôn ngữ, số 3.1973
ThS. Phạm Thị Thuỳ Linh (Khoa Việt Nam học – Trường ĐHSP Hà Nội)
Đang Online: 7
Tổng số truy cập: 497.877