Nữ nhà báo hãng AFP có lần hỏi tôi: “Từng là phóng viên chiến trường, ông có thể nói ngắn gọn cảm nhận của mình?” Tôi gói gọn trong 6 chữ: “Chịu đựng, hy sinh và cống hiến”.
Người phóng viên đang quay những hình ảnh ngay trên những dòng nham thạch núi lửa. Ảnh: TL
Đỉnh cao của cống hiến là hy sinh
Ai mà không nghĩ đến cái chết. Khi tôi khoác ba lô cùng đồng nghiệp rời 58 Quán Sứ lúc chiều muộn 10/6/1972 vào chiến trường Trị Thiên Huế đang là “chảo lửa”, khi con tôi mới 6 tháng trong bụng mẹ. Trong đầu chàng trai trẻ 26 tuổi lúc ấy nghĩ đến hai điều: Một là, thương vợ sinh nở một mình. Hai là, có thể hy sinh mà cha không biết mặt con. Nghĩ đến cái chết, nhưng không sợ chết. Chúng tôi đi. Cả một thế hệ hành quân như thế.
Chúng tôi chấp nhận hoàn cảnh. Đất nước có chiến tranh thì đàn ông ra trận đầu tiên, dù cầm súng hay cầm bút.
Nhưng trên đường Trường Sơn, có ngày chúng tôi gặp cả một tiểu đoàn nữ thanh niên xung phong. Đi qua ngầm trong đêm trăng, bị một giọng quát the thé: “Tránh xa xe ra. Muốn chết hả?” Bác tài là một cô gái mặt sạm khói bụi, đen nhẻm, chỉ có hàm răng trắng đều. Một thời, đất nước, nhân dân là như vậy: gái trai cùng xung trận.
Tôi và bao người khác may mắn sống sót sau chiến tranh ác liệt. Ra khỏi cửa rừng, thứ bàn giao đầu tiên là khẩu súng với tâm trạng chán ghét chiến tranh, khát khao bình yên.
Chán ngán chiến tranh vì chịu đựng quá nhiều. Bom đạn, sốt rét, đói, khát, lũ rừng, rắn độc. Ngàn lẻ một cái chết, kiểu chết rình rập ngày đêm. Cuối đông 1972, mưa liên miên, nước sông Hai Nhánh lên cao, gạo đồng bằng không lên được. Lương thực từ Bắc vào bị nghẽn vì lũ. Thiếu. Đói. Bom, pháo của địch thì thừa thãi, dội liên miên. Tôi buột miệng hỏi nhạc sỹ Trần Hoàn, lúc ấy là Phó Ban Tuyên huấn Khu ủy: “Khổ thế này, liệu ta có thắng không anh?” Phó Ban nói ngay: “Không được do dự, bi quan. Phóng viên, tuyên huấn mà e sợ là truyền bi quan sang người khác. Cậu hiểu không. Hơn ai hết, chúng ta phải có niềm tin. Tuyên truyền phải đi trước động viên mọi người.” Sợ đánh giá là quan điểm, lập trường không vững vàng nên tôi không hỏi tiếp nữa.
Chịu đựng mọi thứ, mọi kiểu, dồn sức lực chiến đấu và chiến thắng, từ trận nhỏ đến chiến dịch lớn cho đến ngày toàn thắng. Trong đạo quân trùng điệp ấy có đội quân báo chí với hàng ngàn người.
Gần 400 nhà báo đã hy sinh trên khắp các chiến trường A, B, C, K (Việt Nam - Lào - Campuchia) và biên giới Việt - Trung. Trong đó có nhiều liệt sỹ nhà báo đến nay chưa tìm thấy hài cốt.
Không thể quên nhà báo Tô Chức. Tốt nghiệp khóa thứ 4, Khoa Ngữ Văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội, năm 1962 anh về làm phóng viên chương trình phát thanh “Từ nhà máy đến công trường” của Đài Tiếng nói Việt Nam. Anh hăng hái đi nhiều công trường, làng quê, viết nhiều phóng sự nóng hổi về cuộc sống và chiến đấu cuả quân dân Miền Bắc, lắng đọng, ngọt ngào trong tùy bút “Người Hà Nội”. Năm 1968, vào chiến trường Trị Thiên Huế, Tô Chức về ngay cơ sở, cùng ăn, ở, cùng chiến đấu với bà con Quảng Điền. Những thiên phóng sự của nhà báo giàu cảm xúc phát trên làn sóng Đài phát thanh Quốc gia, truyền lửa tiền tuyến cho hậu phương.
Có ai ngờ, người truyền lửa ấy, nhà báo Tô Chức hy sinh trong một trận đánh nảy lửa của quân dân xã Quảng Thái vào ngày 16/8/1968. Tô Chức chưa kịp lập gia đình riêng. Anh sống mãi, trong trắng với tuổi 32. Là nhà báo, chiến sỹ xông xáo nơi chiến trận, gia tài là cây bút và những bài báo để lại cho đời. Cái quý nhất trong ba lô của anh là tập tùy bút của Ilia Êrenbua mà người bạn thân là nhà thơ Trần Nhật Lam tặng trước khi vào Nam chiến đấu. Lời nhắn gửi cuối cùng của anh trong thư gửi bố “Con trai bố nhất định sẽ làm cho gia đình ta thêm tự hào, hãnh diện và không bao giờ phải hổ thẹn vì con”. Hy sinh anh dũng, để lại cho đời một phẩm cách cao đẹp chẳng phải là cống hiến cao nhất của một nhà báo liệt sỹ hay sao?
Để lại cho đời một phẩm cách cao đẹp là sự cống hiến tột cùng của một con người, một đời người, một thế hệ. Ảnh minh họa
Những cây bút chan chứa tình yêu cuộc sống
Cái “lẽ sống”, cái “sự hy sinh” ấy cứ lan truyền, cứ tuôn chảy trong dòng máu nóng của những người cầm bút.
Trong chiến tranh họ cũng là chiến sỹ, bên tay bút là tay súng. Đó là nhà báo, nhà văn Bùi Nguyên Khiết, sinh vào năm Ất Dậu (1945), tại làng Xích Thổ, Nho Quan, Ninh Bình, lớn lên làm giáo viên ở huyện miền núi Lào Cai xa xôi, rồi làm báo, viết văn. Tác phẩm của anh chưa nhiều, nhưng đủ để chứa chan tình yêu cuộc sống, thiết tha với bình yên và dựng xây. Vậy nên khi quân xâm lược Trung Quốc bất ngờ tấn công, anh đã có mặt ở vị trí tiền tiêu vừa viết tin, bài đăng ngay trên báo Hoàng Liên Sơn, vừa cầm chắc súng cùng đồng đội đánh trả quân xâm lược. Bùi Nguyên Khiết anh dũng hy sinh vào ngày 17/2/1979 trên chốt tiền tiêu Tả Ngải Chồ, thuộc huyện Mường Khương, Lào Cai.
Tưởng nhớ anh, Hội đồng Nhân dân tỉnh Lào Cai trong kỳ họp cuối năm 2013 đã quyết định đặt tên Bùi Nguyên Khiết cho con đường rộng thênh thang nối đại lộ Võ Nguyên Giáp với phường Bình Minh, bên cạnh trường tiểu học, để nhớ một thời nhà giáo miệt mài truyền con chữ cho học trò các dân tộc nơi đây.
Tưởng nhớ, tri ân đồng đội, đồng nghiệp hy sinh để nói với người may mắn được sống đến hôm nay rằng, hồi ấy, 1978, có hàng ngàn cán bộ, đảng viên trẻ được Đảng và Nhà nước huy động cấp tốc lên biên giới phía Bắc, tăng cường cho cơ sở, bảo toàn phên dậu Quốc gia. Họ đã sống những tháng ngày thiếu thốn, gian truân, đã chiến đấu, đã chiến thắng và nhiều người trở về cơ quan, địa phương tiếp tục cống hiến cho đất nước, cho sự nghiệp. Trong họ có nhiều nhà báo, đủ các loại hình truyền thông, từ địa phương đến Trung ương. Họ đã có công. Họ không tâng công, không đòi hỏi gì nhiều, chỉ muốn công bằng.
Hy sinh mạng sống cho mục đích cao đẹp của dân tộc, đất nước là sự cống hiến tột cùng của một con người, một đời người, một thế hệ.
Cốt lõi của hy sinh cao thượng là yêu nước. Những cuộc chiến đấu quyết liệt bảo vệ Hoàng Sa, Trường Sa của những người con đất Việt trước hết là vì mục đích ấy, vì tình yêu trường cửu ấy. Khi họ đổ máu, hy sinh cao thượng là lúc họ vượt lên tất cả thành phần xuất thân, địa vị, giai cấp, giai tầng, thể chế chính trị. Họ trở về là người con đất Việt nặng lòng yêu nước thương nòi.
Lịch sử, Nhà nước, nhân dân ứng xử xứng đáng với sự hy sinh cao cả của họ, không chỉ là lời tôn vinh đầy mỹ từ mà là từ quan niệm cởi mở, hòa hợp dân tộc, từ chủ trương, chính sách, chế độ cụ thể mà xuất phát điểm là lòng yêu nước đắp xây qua bao thế hệ, là ý chí xuyên suốt lịch sử bảo toàn nguyên vẹn Quốc gia./.
Trần Đức Nuôi
Nguồn tin: theo nguoilambao.vn
Đang Online: 8
Tổng số truy cập: 497.847